Thứ Ba, 18 tháng 2, 2014

Học tập cách hô hấp nhân tạo

Nhiều khi, nạn nhân tuy đã được cứu ra khỏi nước, nhưng vẫn bị thiệt mạng, phần lớn là do một trong hai nguyên nhân sau: * Nạn nhân uống nước quá nhiều hoặc ngưng thở quá lâu nhưng không được hồi sức cấp cứu kịp thời; * Người cứu hộ xử lý quá chậm hoặc xử lý không đúng các thao tác kỹ thuật hồi sức để tái lập lại sự sống.
Nên nhớ, thời gian và tốc độ xử lý cấo cứu người chết đuối phải được tính từng phút:
 
 * Phút thứ nhất: Nạn nhân bị mất thở;
 
 * Phút thứ hai - ba: Nạn nhân thở dưới nước;
 
 * Phút thứ tư: Nạn nhân bị mất cảm giác và tim ngừng đập;
 
 * Phút thứ năm - bảy: Nạn nhân chết lâm sàn, nhưng vẫn còn hy vọng cứu sống;
 
 * Phút thứ tám - mười lăm: Nạn nhân chết hẳn, hết hy vọng cứu sống. 
 
 
Vì vậy, người cứu hộ phải hết sức khấn trương cấp cứu và hồi phục nạn nhân trong khoảng 5-7 phút trở lại (kể từ lúc nạn nhân ngưng thở) bằngcác phương pháp HÔ HẤP NHÂN TẠO phù hợp, để ứng phó trong những trường hợp cần thiết.
 
 Có nhiều phương pháp hô hấp nhân tạo, nhưng không cần phải thực hiện tất cả. Chỉ nên chọn một phương pháp nào mà ta cảm thấy là đưa đến hiệu quả cao nhất và phù hợp nhất.
 
 Đôi khi ta còn phải hô hấp nhân tạo ngay khi tiếp xúc với nạn nhân giữa dòng nước, kẻo nếu không, khi kéo được nạn nhân vào đên bờ thì đã muộn.
 
 Xốc nước nhanh
 
 Việc đầu tiên phải làm để hồi sức là xốc nước nhanh cho nạn nhân (không quá 10s) bằng cách để cả người nạn nhân vắt qua vai người cứu hộ (phần bụng của nạn nhân đè lên vai người cứu hộ). Nên kết hợp vừa xốc nước vừa chạy tới chỗ bằng phẳng để đặt nạn nhân nằm xuống.
 
 Ví dụ. khi ở ngoài biển, nếu đã dìu được nạn nhân vào đến chỗ nước nông (khoảng ngang đầu gối) là vác ngay nạn nhân lên vai để vừa xốc nước vừa chạy tiếp lên đến bờ.
 
 Tiếp đó là nới rộng hay cởi bỏ áo để tránh làm nghẹt cơ quan hô hấp; cạy miệng nạn nhân, lấy khăn sạch móc hết đờm dãi và những chất dơ đang có trong miệng, rồi tiến hành hô hấp nhân tạo.   
 
 
CÁC PHƯƠNG PHÁP HÔ HẤP NHÂN TẠO

 Phương pháp Sylvester:

 
 Phương pháp này do ông Sylvester nghĩ ra và hướng dẫn cho các CẤP CỨUVIÊN cùng thời. Được bác sĩ Marshall Hall đề nghị phổ biến và sử dụng rộng rãi vào năm 1856.
 
 Cách làm như sau:
 
 * Nạn nhân nằm ngửa trên mặt phẳng cứng.
 * Nâng cao vai nạn nhân (bằng gối hay mền cuộn tròn)
 * Đầu nạn nhân hơi ngửa về phía sau, cằm hướng lên trên.
 * Cấp cứu viên quỳ gối phía trước đầu nạn nhân, nắm chặt hai cổ tay nạn nhân. 
 
 
a. THỞ RA:
 
 Đặt 2 cánh tay của nạn nhân gập lại đặt lên trên giữa ngực. Cấp cứu viên nhấn mạnh thật thẳng xuống xương sườn để ép phổi tống không khí ra ngoài.
 
 b. HÍT VÀO:
 
 Cấp cứu viên ngả người ra sau đến khi mông ngồi lên gót chân, đồng thời kéo bẹt 2 tay nạn nhân ra cho đến khi chấm đất. Động tác này nâng cao các xương sườn lên, làm cho không khí đi vào phổi. Làm khoảng từ 15 đến 20 lần trong một phút.
 
 Chú ý: Phương pháp này áp dụng cho các bà đang có bầu hay người đang bị vết thương nơi bụng.
 
 Phương pháp Schaeffer:
 
 Do Giáo sư, bác sĩ E. Charpey Schaeffer của Đại học đường Edinburhg nghĩ ra năm 1903. Phương pháp này hiệu quả hơn phương pháp trước, tương đối giản dị và ít mệt nhọc.
 
 Cách làm như sau:
 
 1. Đặt nạn nhân nằm sấp trên một tấm ván, phiến đá phẳng, trên một ghế dài (miễn sao bằng phẳng và chắc chắn là được), tay đưa lên phía đầu, mặt ngoảnh về một bên;
 
 2. Chèn giữa hai hàm răng một miếng nút chai hay một miếng gỗ nhỏ có buộc dây, cốt để giữ thông đường thở trong suốt quá trình cấp cứu. Dây là để đề phòng lúc nạn nhân tỉnh lại, có thể nuốt vật chèn răng này;
 3. Cấp cứu viên quỳ phía sau nạn nhân, hai đầu gối tì xuống đất, hoặc ngồi nhẹ lên bắp chân nạn nhân (trong trường hợp nạn nhân nằm trên ghế) và đặt 2 bàn tay xòe trên lưng nạn nhân, phía trên khung xương chậu, hai ngón tay cái có thể giáp nhau, các ngón tay khác áp chặt vào hai bên sườn của nạn nhân, phía dưới các xương sườn cụt một chút, đừng để tay tì lên gan;
 
 4. Nhô người lên, hai tay tì mạnh lên lưng nạn nhân, với sức nặng của thân mình và đếm nhẩm trong 2 giây. Cử động này có mục đích ép bụng nạn nhân, làm cho hoành cách mô bị đẩy mạnh lên cao, ép buồng phổi lại, tống khí độc ra ngoài. Đếm xong lại từ từ trở lại tư thế đầu. Khi buông ra, hoành cách mô hạ xuống, phổi nới rộng, khí trong lành tràn vào. Cứ tiếp tục như trên (từ 15 đến 20 lần trong một phút) cho phù hợp với nhịp thở bình thường của mình (THỞ RA ấn xuống, HÍT VÀO ngả người ra sau);
 
 5. Khi nạn nhân đã dần dần hồi tỉnh, đã thoi thóp thở, vẫn phải tiếp tục cấp cứu. Nhưng phải để ý, khi nạn nhân hít vào, phải nhấc hẳn tay ra để nạn nhân thở dễ dàng. 
 
 

 
Phương pháp Nielsen:
 
 * Đặt nạn nhân nằm sấp trên mặt đất cứng;
 
 * Đầu nghiêng và gối cằm lên 2 bàn tay sấp lại với nhau;
 
 * Kéo lưỡi nạn nhân ra để thông khí;
 
 * Cấp cứu viên quỳ gối trước đầu nạn nhân;
 
 * Bắt đầu hô hấp bằng sự thở ra. 
 
 
 a. THỞ RA:
 
 Cấp cứu viên đặt hai bàn tay lên lưng nạn nhân: hai ngón tay cái đụng vào nhau, căn sao cho bàn tay ở dưới đường vòng ngực (đường chạy giữa nách nạn nhân), hai cánh tay giang thẳng ra, rồi nghiêng mình về phía trước gây áp lực mạnh trên lưng nạn nhân, rồi buông ra từ từ (từ 2-3giây).
 
 b. HÍT VÀO:
 
 Cấp cứu viên lui mình mình về phía sau, lướt bàn tay trêncánh tay nạn nhân. Nắm hai cánh tay của nạn nhân trên khuỷu tay (cùi chỏ) rồi kéo về phía mình (giữ y như vậy khoảng 2-3 giây), kế đó đặt hai tay nạn nhân xuống đất. Như vậy là hết trọn một chu kỳ thở ra hít vào.
 
 Ta nên tính mỗi phút làm 12 chu kỳ như vậy là đạt yêu cầu. Ở trẻ em ta làm 14 đến 16 lần trong một phút, vì trẻ em thở nhanh hơn người lớn.
 
 Nên tùy vào nạn nhân lớn hay nhỏ mà gây áp lực lên lưng mạnh hay nhẹ. 
 
 
Phương pháp "Hà hơi thổi ngạt" kết hợp "Ấn tim ngoài lồng ngực":
 
 Đây là phương pháp dân gian có ở nhiều nơi trên thế giới, đã được áp dụng từ trước thế kỷ XVIII. Phương pháp này hiệu quả nhất so với 3 phương pháp trênbởi:
 
 * Không bị mất sức như các phương pháp khác;
 
 * Có thể áp dụng cho mọi lứa tuổi;
 
 * Thông khí theo ý muốn và không khí này có độ ẩm, có một phần thán khí CO2 và hỗn hợp khí này có tác dụng kích thích trung khu thần kinh hô hấp;
 
 * Lưu lượng khí được thổi vào có thể lên đến 1.500cm3 trong khi các phương pháp khác chỉ có khoảng 125 cm3 khí cho mỗi động tác.
 
 
 Tuy nhiên, phương pháp này có vẻ không vệ sinh (có thể trực tiếp lây các bệnh truyền nhiễm bằng đường hô hấp giữa cấp cứu viên và nạn nhân, nếu một trong hai người có sẵn bệnh truyền nhiễm) và không thể thực hiện được khi nạn nhân có vết thương ở các nơi như: cổ, miệng, ngực, xương sườn, cột sống,...
 
 Cách làm như sau:
 
 * Đặt nạn nhân nằm ngửa, lấy ngón tay (có quấn khăn mùi soa) làm sạchmiệng và cổ họng nạn nhân, móc hết ngoại vật và đờm dãi ra, kéo lưỡi để không bít cuống họng;
 
 * Cấp cứu viên quỳ gối trước mặt bên đầu nạn nhân, lòn một tay dưới cổ để nâng đầu lên. Sau đó đặt ngón tay cái vào góc miệng và kéo hàm dưới vừa nhấc lên cao. Tay trái đẩy đỉnh đầu nạn nhân ngửa ra phía sau theo thế "cằm chỉ thiên". Có thể chêm dưới bả vai gối cao hoặc mềm cuộn tròn. 
 
 
* Dùng ngón cái và ngón trỏ của bàn tay trái bịt chặt mũi nạn nhân lại.Có thể dùng một miếng vải mỏng đặt lên miệng nạn nhân để cấp cứu viên cảm thấy yên tâm hơn.
 


Cách hà hơi thổi ngạt:
 
 * Cấp cứu viên hít sâu không khí vào và áp miệng mình thổi vào miệng nạn nhân cho đến khi thấy lồng ngực nạn nhân nhô lên (khoảng 5 giây);
 
 * Khi lồng ngực nhô lên cao, ta lấy miệng ra để không khí từ phổi thoát ra ngoài. 
 
 
Cách ấn tim ngoài lồng ngực:
 
 * Sau đó cấp cứu viên đặt hai bàn tay (khoảng 1/3 dưới) chồng lên nhau trên xương ức của nạn nhân, quỳ gối, hai cánh tay thẳng. Vai - cánh tay - bàn tay hợp với nhau thành một đoạn thẳng vuông góc với lồng ngực của nạn nhân;
 
 * Ép mạnh lồng ngực bằng sức nặng của cơ thể cấp cứu viên xuống xương ức của nạn nhân, làm cho xương ức cùng lồng ngực của nạn nhân bị lún xuống khoảng từ 2-3 cm;
 
 * Mỗi đợt ấn là 15 cái trong 10 giây.
 
 
 Như vậy cứ mỗi 15 giấy, cấp cứu viên sẽ thực hiện một chu kỳ gồm 2 hơi thổi và 15 cái ấn tim. Tiếp tục thực hiện thêm 3 chu kỳ nữa rồi kiểm tra nạn nhân trở lại. Nếu nạn nhân chưa hồi phục, cứ kiên trì hô hấp và cứ sau vài phút sẽ kiểm tra lại một lần.
 
 Nếu có hai cấp cứu viên thì ta cũng làm thao tác giống như trên, nhưng chỉ thổi 1 hơi (phải thổi tương đối mạnh). Thổi từ 10 đến 12 lần trong1 phút. Còn người thứ hai thì quỳ đối diện để làm thao tác ấn tim. Tư thế và độ sâu ấn tim giống như trên, nhưng lưu ý là trong khi người này ấn tim thì người kia buông ngón tay bịt mũi nạn nhân ra.
 
 Ấn tim phải đều và nhịp nhàng, khoảng 60 đến 80 lần trong một phút xen kẽ với việc thổi. Tức là, cứ mỗi lần thổi là 5 lần ấn tim (ấn tim thì không thổi và ngược lại, thổi thì không ấn tim). Sau mỗi lần ấn tim, nhấc nhẹ tay lên cho lồng ngực trở lại vị trí bình thường. 
 
 
Một số lưu ý quan trọng khi cấp cứu và hô hấp nhân tạo:
 
 * Đừng hoảng hốt, nhụt chí. Phải kiên nhẫn cấp cứu, nếu cảm thấy còn có hy vọng cứu sống nạn nhân. Trường hợp nếu thấy các phần môi, vai, lưng, bụng, ngón tay... bị bầm tím thì đành chịu, coi như hết hy vọng cứu sống. Đừng hô hấp nữa, vô ích;
 
 * Nếu có nhiều người đứng xung quanh, hãy nhờ họ cởi quần áo cho nạn nhân, xoa bóp và đắp ấm cho nạn nhân nhưng vẫn phải tiếp tục việc hô hấp như thường;
 
 * Không nên cho nạn nhân uống nước, chỉ khi nào nạn nhận có dấu hiệu tỏ ra đã được cứu sống thì có thể cho nạn nhân uống một chút nước nóng, nhưng phải thật từ từ. Tuyệt đối không được cho nạn nhân uống rượu;
 
 * Cho người đi gọi ngay cấp cứu hoặc bác sĩ càng sớm càng tốt. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét